KINH NGHIỆM DEVACHAN
Kinh Nghiệm Devachan
Tài liệu sau có nét đặc biệt nên xin được giới thiệu tới bạn đọc. Jasper Niemand là bút hiệu của một nhân vật được HPB đích thân chỉ dạy, bạn có thể tìm chi tiết về bà dưới tên Julia Keightley trên trang web
https://theosophy.wiki/en/Main_Page
Julia Keightley ở tại Hoa Kỳ còn khi ấy HPB ngụ tại Anh, bà viết:
… Ở cách xa Anh quốc hàng ngàn dặm, tôi chưa hề gặp HPB … Do kinh nghiệm tôi hiểu bà không phải như bề ngoài ta thấy nên tôi xin bà chỉ dạy tôi … Sau khi được bà nhận làm học trò, mỗi tối lúc tôi chìm vào giấc ngủ sâu, một cuộc sống mới bắt đầu. Sáng hôm sau thức dậy, tâm tưởng đêm qua vẫn còn được giữ lại, và tôi nhớ thật sống động mình đã đi tới gặp HPB … Khi tôi bắt đầu viết bài về Theosophy, HPB gửi cho tôi một cây viết mà tôi luôn luôn dùng để viết bài. Các bài luôn được viết trong lúc tỉnh thức hoàn toàn, mà vào những lúc như thế tôi cảm thấy có hứng khởi, tâm trí có tự do nhiều hơn …
Bài dưới được viết trong khoảng 1893 - 1899, tài liệu khá dài nên đây là bản dịch rút gọn. Mời bạn tìm xem trên internet nguyên bản tên The Sleeping Spheres. Thường thì tài liệu gồm hai phần và chỉ có vậy mà thôi, nhưng bạn nên tìm bản chi tiết hơn có lời bàn của Willem B. Roos, ra năm 1951 và in lại năm 1979, 1982, nó có thể giúp bạn hiểu rõ hơn ý của bài. Bản này có ở:
http://easterntradition.org/article/Sleeping%20Spheres.pdf
Phần I (a)
Có một người đến với tôi, gọi tôi ra khỏi thân xác mà tôi đang ngụ trong đó, và chỉ cho tôi thấy các bầu đang ngủ. (Ngoài thể xác, con người còn có những thể thanh là các bầu hào quang bao quanh thân hình, chữ ‘bầu - sphere’ ở đây được hiểu theo nghĩa đó, là thể thanh, dùng để chỉ chính đương sự trong bầu, mỗi bầu là một cá nhân riêng biệt.)
Mục đích của người hướng dẫn này khi đến với tôi là để làm tôi hiểu rõ ràng vài bí ẩn; những điều bị che kín đối với mắt trần, nhưng không quá xa vượt ngoài tầm hiểu biết của ta nếu ta chịu suy nghĩ một chút để thấy. Và ý thêm nữa là nếu tôi thấy chúng như chúng là tuy bằng nhãn quan nơi cõi cao, có thể tôi sẽ làm chuyện này - là trạng thái Devachan - được minh bạch hơn trong ý nghĩ của vài thân hữu của tôi. Vì các bầu say ngủ này là những cá nhân đang ở trong cõi Devachan. Trong cõi này chúng ta chưa hợp nhất với cội nguồn nên cá nhân còn cần một thể - hay một vận cụ nào đó - để sử dụng. Tôi chọn đại một tên là ‘bầu - sphere’ cho hình thể ở Devachan.
Những bầu này, mà không vật nào đẹp hơn chúng, không nằm ở chỗ nào riêng; chúng tự lập, có tính chất (là làn rung động và mức độ của rung động) nhưng không nằm ở bất cứ chỗ nào đã định. Khi tôi hỏi người bạn đồng hành làm sao có thể là như vậy, anh vạch ra cho tôi thấy rằng chúng thấu nhập nhiều trạng thái khác của vật chất, giữ cho mình liền lạc bằng làn rung động riêng của bầu, y như mọi thể khác thuộc bất cứ loại nào dù thanh nhẹ thế mấy trong khắp thiên nhiên.
Tôi đã ra khỏi cơ thể và nay ở trong thể thanh. Tất cả chung quanh tôi nằm đầy các bầu đang ngủ, như màng sữa mỏng manh trong biển ánh sáng vàng óng. Thỉnh thoảng một rúng động có mầu rất nhạt rung lên lan qua bầu và tôi cũng run rẩy, vì tôi được cho biết các chuyển động màu sắc này trên thực tế là tư tưởng thích thú vô ngần. Phải, những bầu đập nhẹ này có niềm hoan lạc thanh khiết trong chuyển động óng ánh xà xừ của riêng chúng; bầu phập phồng vì sự hoan lạc nơi cõi thanh, và đó là niềm hoan lạc có ý nghĩa to lớn.
Chuyện này thấy rõ ngay cả với tôi lúc ấy đang trong thể thanh. (Tôi tin độc giả biết rành hơn tôi, là tâm thức của thể này thì khác biệt lớn lao với tâm thức thể kia. Điều này đúng bất kể là những thể khác nhau cùng được chứa đựng trong lớp vỏ ngoài là thể xác, hay có lúc nào đó tách biệt với cái sau). Vậy hãy thử tưởng tượng tôi thấy những bầu rực rỡ này, khi thì có màu bạc với sắc xanh dương trên mặt, khi thì rực lên những ánh trong mờ mà chỉ con mắt tinh thần mới nhìn ra, và mỗi sắc đó là một tư tưởng, một kinh nghiệm.
Các tư tưởng xinh đẹp này là giấc mơ của những linh hồn đã rời cõi thế. Bầu ngủ và mơ mộng như vậy. Giấc mơ tươi đẹp làm sao ! Vì các màu vừa là ánh sáng sống động vừa là óc thông minh; mỗi màu là tư tưởng; tư tưởng loại cao quí nhất của trí người. Tư tưởng rung lên trong các bầu, làm thay đổi tâm thức của chúng (b); hòa lại khiến chúng hóa mới; thúc đẩy làm sự sống cao hơn của chúng đi mau hơn; soi tỏ ánh sáng thanh khiết hơn của chúng, ở cõi mà ánh sáng, sự sống và tư tưởng là một hành động tuyệt vời của việc Là - Being, mà không phải những chuyện tầm thường đa số người biết trong thế giới thường ngày của ta.
Như vậy mỗi bầu trở thành càng lúc càng sáng rực với sức sống ba phần này, và tôi thấy chúng bừng lên, lớn dần qua đợt sóng lóng lánh êm dịu, như bông hoa dần nở bung thành tuyệt mỹ hơn nữa nhờ hấp thu tia nắng mặt trời. Việc khai mở có tính thiêng liêng, sự bình an rất sâu xa. Sự tĩnh lặng bao phủ trọn chúng như người mẹ ấp ủ; thỉnh thoảng có bán âm nhẹ là nhịp thở điều hòa của các bầu đang ngủ, chỉ làm có tĩnh lặng hơn.
Tôi không cần nói thêm !
Dầu vậy, ngay cả khi tôi ngắm thể đẹp đẽ của chúng, chuyện thấy rõ là giống như bông hoa, chúng sẽ phải tàn. Dù chúng được tạo bằng những hạt nguyên tử ánh sáng sống động, ánh sáng ấy tự nó là một tâm thức lớn, nhưng chẳng bao lâu tôi quan sát thấy có một thay đổi đáng kể xẩy ra, và thành nổi bật cho tất cả các bầu (c). Mới đầu thay đổi này vô cùng xinh đẹp, là chuyển động nhịp nhàng một chút trong các nguyên tử của bầu. Chúng nhẩy múa, những tia ngũ sắc bắn vọt ra với ánh sáng hết sức êm dịu. Thấy vậy, tôi tự hỏi, ‘Có tư tưởng gì mới mẻ trong giấc mơ của các bầu ?’ Chẳng bao lâu chuyển động lan ra trong mỗi bầu, chúng rung lên thành những lóe sáng và rộn ràng tỉnh giấc (d). Vẻ lộng lẫy từ các bầu đang lắc lư thế ấy tuôn ra mà không có lời nào để tả cho xiết, hay chữ nào nói được hết ý.
Mỗi bầu như vậy dự vào điệu vũ có lời, làm vang lên bài hát với nhạc có nhạc cụ là linh hồn trần trụi (vì không còn những thể thấp); nhạc đó là các lưỡi lửa của ham muốn ngọt ngào, say đắm nhất. Trọn bản thể tôi được gợi thành niềm ước ao mà không có nét tôn kính nào. Tôi hỏi người bạn đồng hành:
– Bài hát đầy quyến rũ này nghĩa là gì ?
Anh đáp thật nghiêm trang.
– Nó hát về sự sống trong thế gian.
Tôi thắc mắc sao anh lại tỏ vẻ nghiêm trọng như vậy với điều đã cho tôi niềm thích thú lớn lao thế đó, nhưng khi quay lại để nhìn các bầu lần nữa, tôi thấy có hoang mang mới. Sự chuyển động tăng nhanh làm sinh ra mầu sắc sinh động hơn, có nhiều hơn tính thô trược và đặc của mầu đất; bây giờ nhạc gào lanh lảnh ở cõi thanh, nghe trong đó có nốt chát chúa của mầu ngọc bích thô lậu, tiếng kèn điếc tai của mầu đỏ chói hừng hực. Các bầu không còn ngủ nữa. Nhưng giờ tôi buồn lòng khi chúng thức dậy ồn ào như thế; trong tâm tôi một tiếng nói sâu lên tiếng:
– Đây là kết cục của mọi ham muốn (e).
Nhạc tăng cường độ, điệu vũ trong không trở thành việc quay tít cuồng loạn, theo âm thanh còn loạn động hơn tuy vẫn nhịp nhàng. Âm thanh này tụ các nguyên tử đang rối tung vào giữa mỗi bầu, ở đây chúng gắng có sắp xếp sơ khởi để kết tinh thành hình thể (f). Những nỗ lực này làm cản trở chuyển động của bầu, và bắt đầu thấy có di chuyển nặng nhọc, xáo trộn, muốn nói tâm thức bị rối loạn.
Tư tưởng đẹp đẽ của bầu bị đảo lộn. Các dòng lửa đỏ, cử động co thắt lạ lùng, những quằn quại mà mỗi co thắt làm các bầu bớt thanh nhẹ hơn, làm vang lên âm thanh mà mỗi nốt khiến các nguyên tử thành thô trược hơn, cho tới khi đột nhiên cái nhân đang thành hình ở tâm nay rúng động mạnh thành hình thể - một dạng chỉ là phản ảnh mờ nhạt của ánh sáng nguyên thủy, một hình không sao hiện hữu được ở cõi nguyên thủy của bầu (là Devachan). Từ nay trở đi những bầu đã tỉnh thức sẽ phải mang lấy gánh nặng quái dị đó ư ? Bị treo lơ lửng ở đó, chỉ được viền bằng những sắc thanh nhã hình tròn, là cái nguyên nhân thô trược cho sự phân tán của thể xinh đẹp, nhưng tôi vẫn nhận ra nó, vừa khóc vừa hỏi:
– Con người trên trần rồi thành như thế này sao ? Chắc chắn điều tôi thấy là sự Tử mà không phải sự Sinh.
Người bạn đồng hành trả lời.
– Quả thật ấy là điều bạn chứng kiến. Đó là cái chết cho giai đoạn sống nơi cõi Devachan, việc sinh vào đời vật chất mà bạn và các thân hữu mù quáng của bạn gọi là ‘trần gian’. Hình thể mà bạn thấy được sinh ra chỉ là khuôn mẫu cho dạng ở cõi trần sẽ được tạo theo đó. Bạn có duyên may được biết thêm về điều gọi là Sinh và Tử. Khi khác tôi sẽ gặp bạn nữa; lúc đó bạn sẽ được cho biết chút kinh nghiệm về sự sống ở cõi Devachan.
Anh biến mất, để lại tôi ở thể thanh trôi lạc lõng trong đêm.
Ghi Chú.
Đây là sự việc nhìn từ bên ngoài, khi cô Julia Keightley được mang lên cõi Devachan trong thể thanh.
a. Bài viết khoảng 1893 tức sau khi HPB đã mất (1891), trong bài cô không ghi người bạn đồng hành là ai, nhưng cô cho hay HPB đã chỉ dạy cô về đêm từ trước 1891 và sau khi bà qua đời (từ lúc này HPB lấy dạng nam giới), khiến ta có thể cho rằng nhân vật là HPB, xin đọc thêm t. 15 số này.
b. Các bầu chỉ là tạm thời, thay đổi theo từng giai đoạn không chỉ hình dạng mà luôn cả những chất của chúng. Năng lực chất chứa trong bầu trong đời một ai nay tiêu tán ra ngoài dưới hình thức là làn rung động. Các rung động này tương ứng với tư tưởng và ý tưởng tinh thần của họ.
c. Thời gian nghỉ ngơi trong Devachan thường rất lâu, nhiều năm. Trong bài cô mô tả những thay đổi liền nhau cho ta cảm tưởng chuyện diễn ra mau lẹ. Sự thật là cô được cho chứng kiến các chặng khác biệt liên tiếp nhau mau chóng, tựa như người biết thuật linh thị - psychometry nhìn một loạt hình ảnh, trôi qua trước mắt tâm linh của mình hết sức lẹ làng, chẳng những thuộc không gian khác nhau mà luôn cả nhiều giai đoạn thời gian khác nhau.
d. Đoạn này muốn nói có sự thay đổi trong tâm thức, tựa như ta tỉnh dậy sau giấc ngủ qua đêm. Linh hồn bắt đầu bị chi phối bởi lòng ham sống Tanha, và dần dần đáp ứng lại sự mời gọi, thôi thúc của cõi trần.
e. Nói rõ thêm thì ấy là kết cục của mọi ham muốn tinh thần, do trong cõi Devachan các ước vọng tinh thần của phàm nhân được thỏa mãn, cho đến khi động lực ban đầu của chúng tiêu tan hẳn, khi ấy lực ham sống đưa linh hồn nhập thế trở lại.
f. Đây là mô tả việc thu thập các uẩn, sự hình thành thể tình cảm mới.
Phần II
Người bạn đồng hành cho tôi hay rằng nay đã thấy từ bên ngoài đời sống Devachan ra sao, tôi cũng nên trải qua kinh nghiệm đó. Lời của anh được mau lẹ làm tròn. Trước khi kể lại việc gì xẩy ra cho tôi tiếp sau, có hai điểm cần được nói rõ ràng:
Kinh nghiệm mà tôi sắp kể đây là của riêng tôi; nó không là của ai khác nếu nói về chi tiết. Điều mà ta gọi là ‘cái chết’ có chi tiết thay đổi theo từng cá nhân, và kinh nghiệm sau khi chết cũng vậy. Ai cũng phải qua đời, đi vào cảnh giới Kama-loca ở cõi trung giới, ai cũng có chút kinh nghiệm ở cõi Devachan, cho dù cái trí nào rất đỗi duy vật sẽ ngủ một giấc dài không mộng mị ở đó. Nhưng chi tiết của kinh nghiệm thì khác nhau cho mỗi cái trí đã rời bỏ xác thân.
Có nhiều loại chết và không có một kinh nghiệm chung bất biến cho tất cả mọi người. Và tại sao ? vì trên thực tế không có ‘cái chết’ chi cả. Bởi khi linh hồn con người chọn đời sống riêng dưới trần cho mình để kinh nghiệm, ta có thể thấy rằng tuy ai cũng đều bước qua cánh cửa Sinh và Tử, nhưng phương pháp và chi tiết phải khác biệt cho mỗi người. Cách chết và kinh nghiệm sau khi chết, mỗi cái tiêu biểu cho một loại người, hay đúng hơn là cho một loại linh hồn.
Điểm thứ hai là kinh nghiệm mà tôi sắp kể với bạn là hoàn toàn thật. Tôi được đưa thẳng vào kinh nghiệm và sống nó; tôi không gọi đó là ‘cái chết’, mà cũng không biết đó là ‘chết’. Tôi là chính kinh nghiệm ấy, tôi chỉ biết đó là sự sống trọn vẹn mà tới phút ấy tôi không hề biết, cho dù trong óc tưởng tượng cao nhất hay giấc mơ sống động nhất của tôi.
Và xin nhớ điều này, tôi chỉ quên chuyện không thiết yếu mà thôi, và không một phút nào quên sự kiện thiết yếu về cái Tôi, bản ngã của mình. Tôi biết trọn vẹn đề tài của kinh nghiệm này là ‘chính tôi‘. Tâm thức tôi tuy được làm thanh khiết và nâng cao, mở rộng, nó vẫn biết ‘Tôi’ là kẻ quan sát. Nói cách khác lúc nào tôi cũng biết tuyệt đối rõ ràng, là ‘chính Tôi’ đang sống cuộc đời mới và đẹp đẽ này (ở cõi Devachan). Tâm thức tôi, trong khi nhận biết Bản Ngã, ngã thức của linh hồn, không hề nhập vào tâm thức chung và không còn ý phân biệt. (Khó mà diễn tả ý này, nhưng Yogananda cũng tả lại y vậy, khi nói rằng dù nhập vào tâm thức thiêng liêng, ông cũng vẫn là mình, cái tôi riêng rẽ, mà không mất đi bản chất cá biệt).
Chỉ mình sự kiện này đủ cho thấy Devachan chưa phải là trạng thái cao tột. Nó là sự hiện hữu nơi cõi tinh thần của cái ngã. Nó không phải tình trạng vô ngã, không phân rẽ của cái Ngã thiêng liêng và linh hồn, là một trạng thái của cái Ngã thiêng liêng và không phải là một thể hay một dạng. Trạng thái này có thể diễn ra trong đời khi ta còn thể xác, và bậc đạo sư có thể bước vào theo ý mình cũng như vào bất cứ trạng thái tâm thức nào khác. Nhưng sự hiện hữu trong cõi Devachan thì khác hơn hẳn trạng thái cao nhất đó.
Vậy ta hãy giả dụ là khi phần II này xẩy ra, bạn hữu chung quanh tưởng là thực tình tôi đã chết. Ai biết về y học sẽ thấy không còn dấu hiệu sống động nào, thân xác cứng đờ và y như thế cả mấy tiếng. Mọi dấu hiệu về cái chết thấy rõ. Nên những ai thương yêu tôi cho là tôi đã ra đi, họ có thể đến với tôi nhưng tôi sẽ không trở lại, và họ thương tiếc, hóa sầu não trong khi ‘chính tôi’ vẫn còn với họ, tràn đầy sự sống chưa biết. Hỡi ai đang than khóc thân nhân, xin hãy an lòng ! Có riêng bạn là đau khổ mà thôi do sự mù quáng của mình. Vì với kẻ mà ta cho là ‘chết’, chỉ có niềm hân hoan tột bực mà không vắng mặt người nào họ thương yêu, và không có cảm giác mất mát nào.
Khi mới có kinh nghiệm này, tôi đang nằm trên giường, được mang vào đó do đột nhiên bị trụy tim. Khắp người tôi bị đau dữ dội, rúng động sâu xa làm tôi phải nhắm mắt lại. Có một giọng nói quen thuộc và thương mến có vẻ như thốt lên từ xa, xuyên qua màn sương mù bao trùm, đè xuống; não phấn đấu mãnh liệt với sương này để cố gắng suy nghĩ nhưng bị cản trở, vì sức nặng ngày càng tăng của chất nửa phàm trần nửa thanh. Tôi không trả lời được nhưng giọng nói lại vang lên nữa, thúc hối, có âm van nài, làm tôi thấy như là mình đã cố hết sức đáp lại.
Tôi không nhấc lưỡi lên được, âm thanh không tụ trong cổ họng; không bắp thịt nào chịu làm theo ý tôi. Giọng nói lại nài nỉ tiếp, nó tỏ ra hết sức đau lòng, và tôi không thể chịu được ý nghĩ là để cho ai thương yêu tôi bị khổ sở như thế, nên tôi tuyệt vọng cố hết sức lần nữa. Tôi thấy như mình lăn lộn dữ lắm, vật mình mẩy tuy được nghe kể là ai đứng quanh không thấy có dấu hiệu gì. Rồi cuối cùng tôi mở mắt được, nhìn vào đôi mắt sậm hăng hái, sáng vì linh hồn, nhiệt tình nhìn vào mắt tôi. Xong tôi không thấy gì nữa, Một hơi thở dài thoát ra khỏi người tôi và tan đi, để tôi rơi vào tư tưởng. Ở phút này ai đứng quanh thấy như tôi thở hơi cuối cùng và ‘chết’.
Tôi lại không thấy như vậy. Cái nhìn từ đôi mắt mà tôi biết rất rõ, khởi đầu một dòng sâu đậm của tư tưởng mà tôi trầm mình bước vào. Nó bắt đầu với việc nghĩ tới sự đau lòng của người bạn đường yêu quí (ta không chắc đây là ai, tuy có thể cô muốn nói tới chồng mình là Archibald Keightley, cũng là một nhân vật trợ giúp HPB đắc lực. Hai người thành hôn năm 1891), và lòng mong muốn xoa dịu nỗi đau ấy, rồi sau đó là ý nghĩ về triết lý của chúng tôi là điều mà hai tôi cố gắng sống theo, là hướng dẫn cho những bước của hai tôi, điều mà tôi sắp bước vào, nó ngăn cấm mọi thương tiếc, sầu muộn.
Rồi tự nhiên là tôi nhớ lại những lần mà chỉ dạy tinh thần này đã nâng đỡ bọn tôi, luôn cả khi tôi chưa được nghe về MTTL. Tư tưởng này làm như cái lò xo mà khi ấn vào, mở toang cánh cửa bị che dấu; trọn cuộc đời tôi bung ra và trải rộng trước mặt để tôi duyệt lại, qua cánh cửa được mở lớn của khối óc.
Tuổi thơ, vô tư tự, hồn nhiên, vui chơi với thiên nhiên, rồi hình ảnh, sinh hoạt của tuổi thiếu niên. Từng chặng này rồi chặng kia của đời tôi diễn ra, cõi lòng khao khát một lý tưởng, thấy rằng lý tưởng là điều thật duy nhất có được. Theo cách ấy những cảnh khác nhau của cuộc đời trôi qua rất mau lẹ trước mặt tôi (1), với mỗi cảnh làm như tôi có được chọn lựa, hoặc là tinh thần hoặc là vật chất, phù hợp với cuộc tiến hóa hay đi ngược lại nó. Trong phần lớn trường hợp có vẻ như tôi hiểu tất cả kinh nghiệm khác nhau của tư tưởng dài, rất dài này. Nhưng ở đây hay kia có gì đó tôi không hiểu. Tôi chưa nếm trọn chúng, vì bị làm rời khỏi chúng quá sớm.
Vừa khi ý nghĩ này sinh ra trong trí (2), kinh nghiệm của tôi tự nó chia làm hai phần, một phần gồm các động lực cao, trực giác rõ ràng, các ước mơ tươi sáng nhất cho sự tốt lành của người khác. Về những điều này tôi cảm thấy sự chắc chắn lặng lẽ, rằng mình đi trên con đường duy nhất mà theo đó linh hồn sẽ có được mãn nguyện hoàn toàn, có bình an nội tâm.
Về phần kia làm như có một giọng nói trong hồn thì thầm về bao chuyện vĩ đại sẽ làm, vinh quang sẽ có, hiểu biết về cuộc sống sẽ được thu thập, và trọn bản thể lóe ra động lực muốn hành động. Tôi phải đứng lên và làm, phải tiếp xúc với mỗi chuyện, phải chứng tỏ mọi điều và chứng cớ ấy phải ở ngoài, thấy được, chạm được, cho thế giới xem. Linh hồn như bị dằng co giữa hai tình trạng này, hai phần của chính nó. Lúc thì phần hành động bên ngoài tỏ ra là tất cả, khi khác thì chỉ có sự chắc chắn nội tâm là đáng tin. Tư tưởng tôi trồi sụt tới lui, như các chớp sáng.
Lập tức tôi thấy không thể phấn đấu được nữa; tôi phải tiến vào cuộc đời để nếm biết, cảm xúc và làm công chuyện. Với ý đó, một ngọn lửa dường như quét khắp người và nuốt chửng tôi (3). Mỗi ước muốn mà tôi từng có nay tuôn vào trí não, bao nhiêu mơ ước, vô số ham muốn đè lên người, xâu xé tôi. Những mầm mà tôi không biết là có được khơi dậy, chạy tung trong trí như một ánh chớp sống động làm phân tâm, mời gọi, rút về, tiến lên và tôi muốn làm và cảm xúc tất cả ngay tức khắc, với sự khao khát vô độ, một cửa miệng tham lam nuốt trọn cuộc đời cảm dục trong gọn một lần.
Tôi cảm thấy có ham muốn mãnh liệt mà không kinh nghiệm nào làm thỏa lòng được; một nhu cầu không chịu nổi muốn trọn con người tràn đầy kinh nghiệm. Tôi muốn nằm dài trên khắp các ngọn đồi, sống trong tất cả vạn vật. Tôi có lòng nung nấu muốn là hàng ngàn, hàng triệu con người cùng một lúc, và cảm xúc trọn sự sống sôi nổi, phập phồng qua hàng triệu con kinh; muốn đóng từng vai, muốn cảm xúc, cảm xúc, Cảm Xúc cho tới khi mỗi cảm quan thiếp ngủ đi; cho tới khi mỗi hạt nguyên tử khoái lạc nhục dục - tuy rã rời - mà biết nó sẽ không thỏa lòng. nếu còn một điểm sống duy nhất nào vẫn chưa được nếm, được hấp thu.
Ấy là sự truy hoan trác táng của dục vọng. Tôi học là ham muốn về đời sống hình thể không ngưng khi được thỏa mãn, tôi bị dầy vò trong Kama-loka và cõi Dục Vọng chế diễu tôi. Nhưng chẳng được lâu ! Có gì đó trong lòng tôi chỗi dậy bắt chuỗi sự việc điên cuồng phải ngưng (4). Ấy là phần khác của con người tôi đã đứng lên oai nghi, bình tĩnh.
Từ sự bình an thẳm sâu linh hồn lên tiếng như tiếng kèn vang dội và trong trẻo, và bao ham muốn biến mất khỏi linh hồn như sương mờ tan trước ánh mặt trời. Nhu cầu sâu kín trong lòng tôi lộ ra, đó là nhu cầu được là - being, mà không phải ham muốn được làm - doing. Tôi nhớ mình là một với linh hồn và thiên nhiên mà không phân cách … và như thế tôi đi vào sự bình an. Khi làm vậy tôi mơ mộng, và nay tôi thành một bầu say ngủ (5) vì đã tách rời các thể thấp của mình mà không hay biết, trở thành ‘người sống trong bầu’, tôi là bầu ấy.
Nỗi lo lắng bồn chồn qua đi, ham muốn ngừng chộn rộn và tư tưởng dừng nhấp nháy. Có vẻ như tôi nghỉ ngơi, dưỡng thần trong sự thung dung nhàn nhã. Tư tưởng là tất cả, chứa đựng mọi điều và tư tưởng duy nhất của tôi là sự bình an. Vậy tôi là sự bình an, trong một trạng thái Là - Being khi ta nghĩ gì thì là như thế đó. Rồi các ước vọng cao nhất và thánh thiện nhất của đời tôi chậm chạp nổi lên và trải rộng trước mặt.
Đầu tiên là những người thân yêu, những người mà tôi hằng mong muốn được biết tỏ tường, và tôi biết trọn vẹn từng linh hồn mỗi kẻ. Tất cả những hy vọng và tình thương bị đè nén của họ hiện rõ trước mặt tôi, rõ ràng trong suốt như pha lê. Họ là điều mà họ ao ước là được như thế, mà không phải là điều mà có vẻ như cuộc đời đã biến họ thành. Hẳn họ rải rác ở đây hay kia; kẻ là người trên trần, kẻ khác là linh hồn trong bầu ở cõi thanh, nhưng đối với tôi không có phân biệt nào; mọi người đều nằm trong tim tôi, mỗi người là chính tôi.
Mơ này rồi mơ kia nẩy nở nhẹ nhàng trước mặt; tôi kinh nghiệm từng cái một và cảm nhận chúng trọn lòng, nghĩa là tôi suy nghĩ nhiều về từng lý tưởng cao đẹp, và sống mỗi ý với trọn con người mình. Làm như tôi hòa vào từng ý cho tới khi trở thành chính tư tưởng đó.
Tôi đã mong muốn nâng đỡ ai bị vùi dập, và họ nối nhau đi ngang qua trước mặt tôi, phong phú với kinh nghiệm, rực rỡ do sự chịu đựng của họ, là kẻ trợ giúp đồng loại, người cứu vớt giống nòi.
Tôi đã ao ước có được hiểu biết và các vì sao hiện ra trước mặt tôi, cống hiến bí mật của chúng cho sự tốt lành của nhân loại sau này.
Tôi đã mong mỏi như người lữ hành trong sa mạc khát khao nước, có được tình bạn một lòng chân thật, các bạn đường không chùn lòng vì đau khổ. Và nhìn xem ! họ ở trong tôi và là chính tôi, cùng với tôi trong mối liên hệ thiêng liêng không đứt mà chúng tôi đã làm việc cho bao triệu người chưa sinh ra… Chúng tôi trở thành. Và khi trở thành như thế, viễn ảnh vĩ đại hiển lộ cho chúng tôi thấy. Con người không biết nó. Mắt người chưa thấy nó. Trí óc không thể đật tên cho nó. Nó là…
Tôi không dám nói thêm, và không thể nói được nếu muốn. Thế nhưng các bạn đồng hành của tôi biết điều ấy. Nhận thức cao nhất ở cõi trời là giấc mơ về những cái ngã vô ngã - selfless selves. Chúng ta không là gì ở đó cả, ta tan biến đi. Phần tốt đẹp nhất của đời sống ấy chỉ có một mục đích, là việc đạt tới sự hợp nhất cho những ai bị đau khổ vì phân cách; ý thức về bình an cho trọn thế giới. Không ai gần, không ai xa. Tất cả có đây; tất cả nằm trong trọn thiên nhiên như là một, bất khả phân cách, và bình an. Bất kể đó là linh hồn thân yêu nào đang nhọc nhằn dưới trần, hay đang ngủ gần đây, là bầu đang hát; cho tới linh hồn trong bầu đang mơ mộng nơi Devachan, tất cả là chính họ, bình an với chính mình.
Bạn hói tôi, thế với ai còn đang cực khổ trên đời lầm than, vẫn phải hứng chịu những sai lầm tàn tệ, thì sao ? Tôi nhìn nhận là chúng ta không nhớ tới họ trong cõi Trời, nơi đối với ta là sự gặt hái tất cả những gì chín mùi và công bằng. Và như thế, dù ta xứng đáng nhận được tất cả các mơ ước về bình an, hay bất cứ trạng thái phúc lạc nào ta có được ở cõi mơ đó, tôi cho rằng cõi Trời vẫn chỉ là một trạng thái của cái Ngã. Đó có thể là cảnh đẹp đẽ khi nhìn từ trong hay ngoài, nhưng nó chỉ là sự hòa nhập vào các ước mơ cao đẹp nhất của ta. Nó là cái bẫy cao nhất nơi cõi thanh cho linh hồn. Không có sự Tự Tại - Self Existent bên trong trạng thái ngơi nghỉ xứng đáng có đó.
Trong lúc các tư tưởng này diễn ra, chúng dần dần mất hết hình dạng (6). Bạn phải nhớ rằng lúc này đây tâm thức của tôi là chỉ về tư tưởng mà thôi. Tôi sống, sinh hoạt trong tư tưởng và là nó. Trong một lúc những tư tưởng này thật xác định, là nhận thức của các hy vọng và lý tưởng đã có trước đây. Để tôi mô tả cho rõ hơn. trong đời dưới thế tôi có liên hệ mạnh mẽ với một số người, tất cả làm việc theo nhiều cách khác nhau về một lý tưởng chung cao đẹp. Trên trần đôi khi chúng tôi khác ý nhau dữ dội; thế mà mối dây và lý tưởng vẫn chặt chẽ.
Mới đầu ở cõi Trời, tôi cảm thấy tất cả những bạn đồng chí hướng đặc biệt của tôi ở gần mình; ai tôi biết rõ nhất - do việc họ có vẻ cận kề - tuôn ra sự ngọt ngào sâu xa với tư tưởng của tôi. Rồi tôi thành bớt ý thức về sự đồng nhất của người bạn này với mình, mà ý thức nhiều hơn về lý tưởng mà bọn tôi chia sẻ. Tư tưởng về lý tưởng ấy mở rộng cho tới khi nó thành lớn hơn là bạn có thể tưởng, và lý tưởng cao quí đó bao trùm mọi đất đai, lứa tuổi, mọi người, mọi vật đã và sẽ sinh ra…
Rồi tất cả thế giới và sinh linh thành bạn với tư tưởng của tôi, và khi ấy tôi biết, ô, bạn à, là không có lỗi nhịp, không có phân rẽ. Các nỗi sợ hãi che dấu ta với nhau biến mất. Mặt nạ tàn nhẫn mà cuộc đời bắt chúng ta phải mang, thân xác che khuất chúng ta, hàng rào giữa linh hồn với nhau, tan đi. Tôi thấy bạn như bạn là, các bạn, những người bất tử trong vương quốc không do bàn tay tạo nên. Ngay cả kẻ thù của ta cũng chỉ là chính ta nghiêm khắc hơn mà thôi. Ta nhìn ra sự duy nhất trong dị đồng, nét giống nhau trong sự khác biệt, linh hồn ta nhìn nhau và với động lực không xóa được, ta hợp nhất với nhau trong lý tưởng.
Sau giây phút không thể nói được này, tâm thức thay đổi. Người ta bắt đầu học các luật của vũ trụ (7). Tư tưởng được biểu lộ thành con số có nhạc điệu, rồi thành âm thanh đầy ý nghĩa mà tai phàm chưa hề nghe, sau rốt thành mầu sắc sống động, huyền bí, tuyệt vời, mỗi mầu thể hiện một ý tưởng tinh thần vô hình dạng. Mà tất cả điều này là chính tôi, là bạn, là một cái Ngã đang say mê, thế nhưng tôi không hề mất tính cá biệt của mình; giọt nước vẫn phân biệt với biển lấp lánh.
Cũng y vậy, tôi biết mỗi linh hồn mà tôi thương yêu, và khi biết yêu mọi linh hồn, với mỗi người như là tư tưởng của riêng tôi đối với mình, tôi vẫn có tâm thức phân biệt và tách riêng cho từng người. Nhưng tất cả là một tư tưởng. Trong lúc mơ mộng như thế, chân lý mở lớn thành mầu sắc như bông hoa, làm như tôi chìm càng lúc càng sâu vào một thế giới thuần ý tưởng (8), vô dạng, êm ả, mà lớn lao với một sức mạnh tôi không sao tả được.
Một lúc chìm đắm trong tư tưởng trôi qua. Tôi không biết làm sao khởi sự cái nguyên do khiến kết thúc giấc mơ của mình. Mới đầu tôi thấy có lo lắng mơ hồ, rằng tất cả những gì tôi biết chỉ là hệ quả của một nguyên nhân mình chưa rõ. Không có gì tự nó hiện hữu và chỉ sống cho nó cả. Tất cả điều tôi biết là có cõi hiện tượng và cõi tinh thần. Căn nguyên nằm ở đâu ? Đâu là cội nguồn của việc Là - Being ?
Ý này vừa nẩy sinh trong trí, thì làm như tôi cảm thấy mình thành một cái gì đó tách biệt với tư tưởng. Tư tưởng và tôi bị phân đôi. Thay vì ngơi nghỉ trong một lý tưởng, tôi muốn có người sinh ra lý tưởng đó. Có thiếu vắng sự tự tại. Trí tuệ bừng tỉnh và tôi thấy mình với tư tưởng là hai thực thể riêng biệt, hay như là hai chặng của một cái ngã. Tư tưởng này có gì thiếu sót ư ? Làm sao tôi tin chắc rằng tư tưởng là tất cả ? Căn nguyên, tôi muốn biết căn nguyên, và một tiếng vang sâu đáp lại:
– Bạn chính là căn nguyên ấy.
Tôi hỏi giọng nói trong tâm đó.
– Tôi tìm được chính tôi ở đâu ?
Và giọng nói trả lời.
– Không phải ở cõi Trời. Không phải ở cõi của hệ quả và phần thưởng (tức cõi Devachan), nơi mà lòng ham muốn có kết quả đã mang bạn tới.
Và khi ấy tôi hiểu đúng là vậy, và sự bình an trở thành đáng ghét đối với tôi. Bởi nó là sự bình an giả tạo, ảo ảnh, điều dối gạt. Trong tâm thức tôi chớm lên một điểm thật nhỏ về sự phân hóa. Tư tưởng chia nhỏ ra. Tôi thành không hòa thuận với chính mình. Tôi đã chán việc không hành động, tôi muốn đi ngược lại bước đường của tôi (9). Linh hồn, cái dũng mãnh, lắc người cho rơi sự giải đãi của mình, nhận ra là nó ở vào ‘đường cụt’, và nai nịt chuẩn bị mình để trở về đời có hành động, hy vọng làm vậy sẽ ra manh mối cho căn nguyên rốt ráo.
Rồi cái trí, kẻ phê bình và phân chia, tác động nữa. Thời gian hiện ra sau đó, làm ta ý thức về nó trở lại. Ý niệm về thời gian đã mất khi có việc hòa làm một. Ý phân cách giờ khơi dậy nhận thức về thời gian. Từ chỗ nào đó không biết của bản thể tôi làm như có những điểm bừng cháy phóng ra, châm chích tôi phải hành động. Ý về hành động xua đi sự bình an đều đều. Hình ảnh về việc làm và bao người lại một lần nữa nối nhau đi - một sông dài vô tận bừng cháy của sự sống.
Trí tôi làm như lao vào hành động. Nó nhớ lại những chuyện đã quên, việc bỏ sót chưa làm, kinh nghiệm chưa nếm; nghỉ ngơi là điều chán ngán, và sự bình an là chuyện tẻ ngắt so với cái trí chiến sĩ bừng bừng này. Quả đúng là một phần mờ nhạt và xa xôi của tôi, làm như nhìn vào cái trí suy nghĩ chộn rộn với ý xa cách lạnh lùng. Linh hồn tôi run rẩy, ngần ngừ giữa hai mặt của chính mình, lơ lửng giữa sự ngủ mê và hành động.
Lập tức, từ đâu tôi không biết có một dòng âm thanh cuồn cuộn lướt qua, tiếng huyên náo của thế giới làm nhói đau cảm quan chưa quen của tôi. Từ một vực xa thẳm nổi lên sự xáo động của cuộc đời. Tôi hiểu là trong giấc mơ tôi đã quên sự sống. Với trọn sức lực của mình tôi ao ước có sự sống trở lại, để cảm xúc, làm việc, hành động, hiện hữu.
Một cái rùng mình bực bội gạt tư tưởng đi mất. Tôi bắt đầu ý thức mình là một phần riêng biệt, ý thức về những cõi thanh, các bầu, và cõi Trời. Từ thẳm sâu trong lòng tôi vang lên tiếng kêu, lời kêu muốn có sự sống, có hành động. Và tiếng kêu được hồi đáp. Cõi Trời biến mất, cõi thanh quấn tròn như tờ giấy cuộn. Thẳm tít bên dưới trong một cái vực đỏ, tôi thấy một thế giới đỏ. Giữa thế giới ấy và tôi một viễn tượng cuộn mở ra, cuộc đời sắp có với trọn hỗn loạn của nó diễn ra trên một màn ảnh. Tôi là màn ảnh đó, tôi biết hết tất cả mọi điều (10 sẽ tới cho kiếp này). Thế nhưng tôi không nản chí hay mất tinh thần. Lòng tham sống chiếm lấy tôi. Tôi phải tham lam uống trọn cuộc đời lần nữa.
Tôi nghiêng người qua vực. Tôi cảm thấy mình lấy hình dạng trong sự vùng vẫy không quên được. Bao lỗi nhịp réo gọi xuyên qua tôi. Tiếng la hét tràn khắp người tôi. Các lực điên dại tranh nhau và ham muốn sôi nổi làm tôi bị dằng co. Sự vĩ đại của hành động làm tôi rộn ràng, tôi không thể ngưng, tôi nhìn vào cuộc đời trở lại. Tôi phải là tôi, cái tôi riêng biệt lần nữa. Có cái rộn ràng thứ hai và tôi sinh ra trong bầu, một hình hài trong cõi mà từ đó hình hài phải rơi.
Tôi tập trung mình lại, nghiêng người qua vực mầu đỏ, sự hào hứng làm tâm thức quay cuồng. Tôi buông mình nhào xuống vực bởi tôi phải sống trở lại lần nữa. Ngay cả khi rơi xuống, tôi cảm được một nỗi vui hăng say mãnh liệt, như của một ngọn lửa có ý thức bắn vào biển lửa.
Rồi sao ? Rồi có đâm sầm. Rồi màn đen. Rồi kết thúc. Chỉ có hư vô cho đến khi tôi thức dậy. Ở đâu ? Trong cõi của hình thể. Ở đây, nơi hình thể che dấu linh hồn. Ở đây, nơi tôi mất các bạn đồng hành ở cõi Trời. Ở đây, nơi tôi thấy có quá ít các bạn, huynh đệ ơi ! Ở đây, khi tôi đưa tay ra quờ quạng mà không thể chạm vào bạn; mắt đầy mong mỏi mà không thấy được bạn vì lệ. Con tim kêu gọi nhưng không nghe ai đáp. Tiếng gọi của nó quá yếu. Niềm tin của nó quá nhỏ. Các bạn đâu rồi, hỡi huynh đệ của tôi ? Ta đừng che dấu nhau nữa. ta hãy nhìn vào sự sống và lẫn nhau như là các linh hồn bên trong Đại Ngã vĩnh cửu. Có lẽ khi ấy ta sẽ thấy nhau.
Tôi có cần nói thêm chăng ? Tôi nghĩ là không. Bạn đã thấy là hạt nguyên tử của lòng ham muốn nằm sẵn trong bầu nay thức dậy từ trạng thái tiềm ẩn, thanh nhẹ của nó, và rung động trở lại hướng về một đời khác, sinh vào ba cõi thấp lần nữa. Vì dòng tinh thần đã tàn, và chu kỳ biểu lộ được khơi dậy trở lại. Do tác động của lực mới này các hạt nguyên tử hướng về trần thế. Lòng ham sống dưới trần sinh ra sắc tướng, và sắc tướng sinh ra nhu cầu có hành động, và từ cõi Trời tôi theo con đường này trở về. Phải, tôi trở về, mà vẫn còn tìm kiếm căn nguyên của việc Là - Being.
Tôi thức dậy, thấy đang nằm trên giường của mình, có gió mùa đông thổi vào. Căn nhà mà tôi đi vào, cái nhà mà tôi gọi là cơ thể của mình, thì cứng đờ và trơ khấc. Tôi bị thu hút về thân xác lạnh cóng bằng sợi chỉ bạc như thường là vậy. Thân xác đáng ghê quá; nó quắt queo, gầy gò, héo hắt. Mặt trời mọc chiếu ánh đỏ qua cây mầu sậm trong công viên rộng lớn. Tôi do dự, muốn đi theo đường của mặt trời. Tôi không thể đi vào tiếp xúc với thân hình như con khỉ khô quắt ấy.
Ngay lúc đó tôi thấy người đã hướng dẫn tôi lên cõi Trời đứng bên cạnh. Anh chạm vào trán tôi và mắt tôi mở ra. Tôi thấy hình hài khô khốc đáng ghê ấy nằm ngang đầu gối một người khác đang khóc thảm thiết, vừa khóc vừa nâng nó lên hứng những tia của mặt trời đang mọc, kêu cầu thánh thần trời đất, và khóc thật đắng cay.
– Bạn sẽ vào trở lại chứ ?
Người hướng dẫn hỏi.
– Tôi sẽ đi vào. Tôi đáp.
– Vì sao ? anh hỏi.
Tôi quay sang anh mạnh mẽ.
– Tôi sẽ trở vào để làm một người ngưng rơi lệ.
Anh cúi đầu nói nhỏ.
– Xin hãy đi vào, nhân danh thần thánh, và mong sao bạn được ân lành trên đường hành hương tới mặt trời ẩn dấu (tức Chân nhân).
Anh rút lui và tôi rùng mình nhập vô hình hài xấu xí đó, như người đi vào sự tối đen trong bụng mẹ. Có chấn động, rùng mình, rồi tôi không cảm thấy gì nữa, không biết gì thêm.
Tôi tỉnh giấc, có ý thức trở lại khung cảnh quanh mình. Nó bao quanh tôi như một sức nặng, tai ù của tôi nghe một âm thanh nhỏ. Âm hóa lớn hơn một chút, nó là âm thanh lạ lùng, tiếng nức nở lẫn với tiếng thở đứt đoạn và một nốt giống như tiếng cười. Ai đó đang khóc vì mừng vui, ai đang hân hoan có được tôi trở lại. Tôi nhìn xuống người bạn đồng chí hướng đang cúi đầu khóc. Và tôi cũng khóc trong căn nhà chật hẹp ấy, là cơ thể của mình. Tôi khóc vì cảm thấy linh hồn tôi với tôi là hai. Thượng Đế - sự sống duy nhất - đã nối kết chúng tôi lại với nhau, và con người, cái trí người, mong muốn có kinh nghiệm mới, đã phân rẽ hai tôi.
Người bạn khóc vì hân hoan. Còn tôi khóc vì sầu não. Người bạn mừng là có được tôi trở lại. Tôi buồn vì ở cõi Trời chúng tôi là một trọn vẹn với nhau; nay trong thế giới hình thể chúng tôi thấy phải bị ngăn cách phần nào. Ở đây chúng tôi là hai người riêng biệt. Ở đây chúng tôi bị chia rẽ người này với người kia do thân thể và tâm trí khác biệt. Nơi cõi Trời tôi dựa vào linh hồn tri âm tri kỷ với mình, tôi đã thành là một với tất cả những linh hồn giữa bao vẻ lộng lẫy; ở đây tôi phải tìm kiếm vô vọng các linh hồn thân yêu bên dưới lớp hình hài ! Hình hài, cái che dấu chúng ta với nhau ! Trí năng, những khác biệt của nó ngăn không cho ta nhận ra lẫn nhau ! Tư tưởng mới cay đắng làm sao ! Ít nhất tôi đã nếm một sự hợp nhất cao hơn ở cõi Trời, và với ký ức đó vẫn còn mới mẻ trong tâm, hình hài cao nhất xem như chỉ là đất cát u ám, thô kệch.
Thế nên hai chúng tôi khóc với nhau; một kẻ vì vui sướng, kẻ kia vì thảm sầu. Anh, vì anh có lại được tôi bằng xương bằng thịt. Tôi, vì tôi mất anh trong lớp thịt xương. Chậm chạp, chúng tôi bắt đầu nhìn, kẻ này nhìn vào nỗi đau lòng của kẻ kia, và thông cảm với nhau. Anh kêu to hối hận:
– Anh đã kéo em trở về cõi trần.
Tôi cũng hối tiếc than thở với anh:
– Em muốn tách rời anh với kinh nghiệm và nhiệm vụ, vì em mong muốn cùng anh rong chơi cõi Trời.
Khi người này hiểu được tình cảm người kia, lòng xót thương làm chúng tôi thành một trở lại.
Người hướng dẫn đứng trước mặt chúng tôi. Anh nói:
– Không phải các bạn thấy là con đường dẫn đến sự Tự Tại - Self Existent nằm trong lòng Từ và trong việc làm nhiệm vụ chỉ vì đó là nhiệm vụ hay sao ? Tất cả những gì khác là lòng ham muốn có kết quả và sẽ đưa bạn vào cõi của hệ quả. Bầu tăng trưởng vào cõi thấp và rút vào cội rễ của tinh thần. Nhưng sự thường hằng chỉ tìm được khi tâm không còn ham muốn kết quả, mà chỉ khao khát cái nguyên nhân của sự Tự Tại mà thôi.
Anh biến mất. Chúng tôi ôm chặt nhau và tâm trí nhận ra sự thật. Chỉ do lòng Từ, do việc làm nhiệm vụ chỉ vì mọi người, với lòng từ bỏ kết quả cho cá nhân, chỉ có vậy con người mới có thể thoát khỏi cạm bẫy của cõi Trời hay thiên đàng, là giấc mơ cao tột của lòng vị kỷ tột đỉnh; chỉ do vậy linh hồn mới có thể biết được chính mình, thanh khiết như buổi ban mai đầu tiên, mạnh mẽ như vĩnh cửu; chỉ nhờ vậy nhân loại mới có thể trở thành Đại Ngã không thể phân chia, thành căn nguyên, sự hợp nhất.
Ghi Chú
● Đây là kinh nghiệm từ bên trong. Julia Keightley được cho trải qua những chặng thông thường khi người ta qua đời, là một thời gian ở cõi trung giới hay Kama loka, rồi sang những cảnh thấp thuộc hạ trí hay trí cụ thể Rupa loka, kế đó là cảnh cao thuộc thượng trí là trí trừu tượng Arupa loka. Bởi cô vẫn còn sống ở cõi trần với đủ bẩy thể và tri thức, chưa là cư dân thường trực ở Devachan, cô được cho lên đây chỉ trong thoáng chốc để lấy kinh nghiệm, nên cảm nhận của cô khác với của linh hồn nào đang ngụ trong Devachan.
Dưới đây ta ghi lại những chặng cô trải qua và những khác biệt ấy:
1. ‘…những cảnh khác nhau của cuộc đời trôi qua rất mau lẹ trước mặt’… p. 5
Đây là lúc cận tử, Chân nhân duyệt lại những hình ảnh trong đời và chính mình làm quan tòa phán xét.
2.‘Vừa khi ý nghĩ này sinh ra trong trí’ p. 5
Ta có sự khác biệt đầu tiên với tiến trình thông thường lúc qua đời. Với chuyện sau con người sẽ mất tri thức ở điểm này, trong khi cô vẫn còn tri thức.
3. ‘… Một ngọn lửa dường như quét khắp người và nuốt chửng tôi’ … p. 5
Cô mô tả các hình ảnh lộn xộn, là tình trạng điển hình ở Kama loka.
4. ‘…Có gì đó trong lòng tôi chỗi dậy’… p. 6
Tình trạng Kama loka của cô chấm dứt và vài đoạn ngắn kế tiếp mô tả việc cô chuyển sang cảnh sống ở cõi Devachan. Ấy là giai đoạn chuẩn bị thông thường và nói chung rất dài, tỉ lệ với mức tinh thần của người. Từ việc mất tri thức nói ở trên (xem số 2), ‘…tri thức sẽ chậm chạp dần có lại vào cuối giai đoạn chuẩn bị … và Chân nhân có tri thức hoàn toàn khi nó bước vào Devachan’.
5. ‘… Nay tôi thành một bầu say ngủ’… p. 6
Giai đoạn Devachan của cô bắt đầu nơi cõi trí cụ thể Rupa loka còn sắc tướng, người ta vẫn còn cảm nhận những hình thể và nhân vật, tiến lần qua nhiều chặng.
6. ‘…các tư tưởng này diễn ra, chúng dần dần mất hết hình dạng’ p. 6
Đây là cảnh cao nhất của hạ trí Rupa loka, chuẩn bị vào cõi thượng trí là trí trừu tượng Arupa loka vô sắc tướng.
7. ‘…Người ta bắt đầu học các luật của vũ trụ’ … p. 7
Đây là cảnh đầu của cõi vô sắc tướng, thuần trí tuệ. Sự hiểu biết là một mục tiêu ở cõi này, khởi sự là cụ thể rồi thay đổi dần thành trừu tượng.
8. ‘…Tôi chìm càng lúc càng sâu vào một thế giới thuần ý tưởng’ …p. 7
Cô tiến ngày càng nhiều vào cõi vô sắc tướng. Khả năng mô tả những cảnh này thành càng lúc càng bị giới hạn.
9. ‘… Tôi muốn đi ngược lại bước đường của mình’ … p. 8
Ý này cho thấy cô còn khả năng suy gẫm, là khả năng mà người trong Devachan không còn. Khác biệt nữa là giai đoạn Devachan chấm dứt rất từ từ, nhưng đột ngột và mạnh mẽ đối với cô.
10. ‘… Tôi biết hết tất cả mọi điều (sẽ tới cho kiếp này). Thế nhưng tôi không nản lòng hay mất tinh thần.’ … p. 8
Khi năng lực thanh cao tiêu tán hết ở cõi Devachan, lòng ham sống Tanha khởi lên, thúc giục con người muốn có kinh nghiệm nơi cõi trần trở lại, nói khác đi lòng ham sống trong cõi vật chất lôi cuốn linh hồn nhập thế lần nữa. Trước khi từ Devachan nhập thế trở lại, bắt đầu một kiếp sống mới, trong một khoảnh khắc cô có tâm thức của Chân nhân về kiếp mới này là thấy được tương lai.
So sánh với đoạn HPB viết trong The Key to Theosophy:
– Như vào phút lâm tử con người nhìn ngược trở lại vào đời vừa xong của họ, thì cũng y vậy vào phút anh sắp sinh ra dưới trần, Chân nhân ở trong cõi Devachan khi thức tỉnh từ tình trạng mê ngủ nơi đó, thấy được viễn ảnh về kiếp đang chờ đợi nó, và ý thức được tất cả những nguyên nhân đã dẫn tới kiếp như vậy.
Chân nhân ý thức các điều ấy và thấy được tương lai, vì lúc này nó ở giữa Devachan và việc tái sinh, Chân nhân có trọn tri thức như trước và trong một chốc ngắn ngủi. thành trở lại toàn tri tựa thần thánh như nó đã là, trước khi theo luật Karma đi vào vật chất. p. 162 - 3.
● Khi giai đoạn Devachan chấm dứt, lòng ham sống trong cõi vật chất lôi cuốn linh hồn nhập thế lần nữa, sự thôi thúc này được diễn tả rất rõ.
… Tôi đã chán việc không hành động… Ý về hành động xua đi sự bình an đều đều … p. 8
… Với trọn sức lực của mình tôi ao ước có sự sống trở lại, để cảm xúc, làm việc, hành động, hiện hữu … p. 8
… Lòng tham sống chiếm lấy tôi. Tôi phải tham lam uống lấy trọn cuộc đời lần nữa. p. 8
… Tôi buông mình nhào xuống vực bởi tôi phải sống trở lại lần nữa. p. 8
Vài điểm khác đáng chú ý là:
● Lúc cận tử: duyệt lại quãng đời đã sống: … Những cảnh khác nhau của cuộc đời trôi qua rất mau lẹ trước mặt tôi. p. 5
Nơi người sắp chết, đây là cơ hội cho Chân nhân nhìn lại xem đã học được gì trong kiếp sắp xong, nhưng bởi Julia chưa chết, cô được cho thẩy chỉ để biết có chặng này mà không phải là để đúc kết kinh nghiệm, nên cô không dừng lại lâu:
– Nhưng ở đây hay kia có gì đó tôi không hiểu. Tôi chưa nếm trọn chúng, vì bị làm rời khỏi chúng quá sớm. p. 5
● Với ai là cư dân ở đây, Devachan là thiên đàng, nơi các ước mơ thanh khiết, tinh thần như tình thương yêu trở thành thực tại, không có tranh chấp, chống đối, lỗi nhịp ở đây. Người trong Devachan mất tri thức, họ đang mê ngủ, say sưa với những mộng đẹp, ước mơ thanh cao,linh hồn sống trong bình an tột độ theo mức của nó. Julia Keightley không phải vậy và cô vẫn còn ý thức. Bởi chưa chết và chỉ là khách đến thăm, cô không cảm thấy thoải mái với sự bình an đó mà bị đời sống đang có ở cõi trần thôi thúc, mà hiểu ra bản chất thực của Devachan.
… Và khi ấy tôi hiểu đúng là vậy, và sự bình an trở thành đáng ghét đối với tôi. Bởi nó là sự bình an giả tạo, ảo ảnh …Tôi đã chán việc không hành động, tôi muốn trở ngược lại bước đường. p. 8
● Lòng tham sống Tanha nổi lên sau thời gian ở Devachan chấm dứt, được trình bầy rõ ràng:
… Trí tôi … nhớ lại những chuyện đã quên, việc bỏ sót chưa làm, kinh nghiệm chưa nếm … Với trọn sức lực của mình tôi ao ước có sự sống trở lại, để cảm xúc, làm việc, hành động, hiện hữu. p. 8
… Từ thẳm sâu trong lòng tôi vang lên tiếng kêu, lời kêu muốn có sự sống, có hành động. p. 8
● Khi nói về tâm thức cao mà Devachan là thí dụ khởi đầu, hình ảnh và ý quen thuộc là giọt nước tan biến vào đại dương, hay tiểu ngã hòa vào Đại Ngã, dầu vậy linh hồn không mất đi tính cá biệt của mình. Yogananda xác nhận điều ấy, ở đây Julia Keightley cũng nói lên ý này.
…Tôi không hề mất tính cá biệt của mình; giọt nước vẫn phân biệt với biển lấp lánh. p. 7
Một bài học rút ra từ việc tìm hiểu tài liệu này là muốn hiểu rõ Theosophy thì người ta không phải chỉ đọc sách từ đầu tới cuối là được, mà phải đối chiếu, sắp xếp nhiều nguồn tài liệu với nhau; một đoạn trong sách này có thể bổ túc, làm rõ nghĩa một đoạn trong sách khác. Theo ý đó, bài nên được xem tới lui nhiều bận để thấm ý, và đọc kèm với các nguồn khác. Bài The Sleeping Spheres là tài liệu TTH độc nhất đi vào chi tiết, giải thích rõ đời sống trong Devachan và điều gì xẩy ra, khi thời hạn ở đây chấm dứt và lòng ham sống đưa người ta vào vòng tái sinh trở lại, và vì thế có giá trị, xứng đáng cho bạn tìm hiểu kỹ.
Kèm với nó mời bạn đọc lại bài Thư Gửi Ông Sinnett, thư 68 trong hai số PST 75, 76, và số này 88 trang 28, cùng những phần rải rác trong các thư khác nói về giai đoạn Devachan. Xếp đặt các chi tiết thâu lượm thành thứ tự sẽ là việc làm lý thú.